Điểm quan trọng để Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số
Thứ năm, 06/11/2025 05:45
Điểm quan trọng để Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số
Việt Nam đang đứng trước cơ hội chuyển mình khi trong dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội XIV của Đảng đặt ra mục tiêu phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân giai đoạn 2026-2030 từ 10%/năm trở lên.
Bên cạnh đó, GDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt khoảng 8.500 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 28% GDP; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt trên 55%. Tốc độ tăng năng suất lao động đạt khoảng 8,5%/năm. Giảm tiêu hao năng lượng tính trên đơn vị GDP ở mức 1-1,5%/năm. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%.
Đây được xem là “chìa khóa” để mở cửa vào nhóm các quốc gia phát triển. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để biến mục tiêu này thành hiện thực?
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Chia sẻ với PV VietNamNet, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng - Giảng viên cao cấp tại Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) cho rằng, mô hình tăng trưởng hiện nay vẫn thiên về phát triển theo chiều rộng, dựa nhiều vào lao động giá rẻ, tiêu tốn nguồn vốn và năng lượng lớn, phát thải cao, lãng phí nguồn lực và phụ thuộc đáng kể vào đầu tư, công nghệ nước ngoài.
Theo chuyên gia, mô hình mới mà Việt Nam hướng đến phải tạo được tăng trưởng cao hai con số liên tục trong 5 năm 2026-2030. Nếu vẫn phát triển theo hướng cũ, nền kinh tế sẽ cần một lượng đầu vào khổng lồ mới có thể duy trì mức tăng trưởng cao, từ đó gia tăng phụ thuộc và kém bền vững.
“Chúng ta cần điều chỉnh, thậm chí chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng giảm các yếu tố giá rẻ, giản đơn, giá trị gia tăng thấp”, ông nhấn mạnh.

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng, mô hình tăng trưởng mới nên khai thác triệt để các động lực tăng trưởng mới.
Thứ nhất, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số sẽ tạo nền tảng hành lang phát triển mới dựa trên số hóa, không giấy tờ, tốc độ nhanh hơn, năng suất cao hơn, hiệu năng tốt hơn và thời gian ngắn hơn. Việt Nam hiện có đủ điều kiện để khai thác lợi thế này.
Thứ hai, thúc đẩy chuyển đổi xanh giúp hàng hóa Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn mới của thị trường quốc tế, mở rộng đầu ra, nâng cao giá trị. “Chuyển đổi xanh triệt để, phát thải ròng thấp, logistics xanh, doanh nghiệp xanh, lối sống xanh, tiêu dùng xanh... sẽ tạo nên tiêu chuẩn mới trong mô hình kinh doanh, kết hợp giữa số và xanh”, ông phân tích.
Thứ ba, phân quyền mạnh cho địa phương để khai thác tính năng động và sáng tạo. Khi có cơ chế đặc thù và linh hoạt, các địa phương sẽ huy động tốt hơn nguồn lực phát triển và xây dựng được mô hình tăng trưởng riêng.
Thứ tư, cần cắt giảm các thủ tục hành chính, loại bỏ giấy phép con và điều kiện kinh doanh không cần thiết, gây phiền hà, chậm trễ. Đẩy mạnh ứng dụng AI, tự động hóa, số hóa quy trình để tinh gọn bộ máy, tăng hiệu quả.
Cơ cấu lại nền kinh tế, đầu tư cho công nghệ
Theo PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, để cơ cấu công nghiệp phát triển tốt, nông nghiệp phải giảm tỷ trọng. “Hiện nông nghiệp chiếm khoảng 12% GDP, trong khi các nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Singapore... chỉ còn 0,5-1%. Vì vậy, Việt Nam cần giảm ít nhất 11% trong 20 năm tới, tức mỗi năm giảm 0,5-0,6% tỷ trọng nông nghiệp trong GDP. Điều này đòi hỏi các ngành công nghệ mới, công nghệ cao phải phát triển rất nhanh để chuyển dịch lao động sang lĩnh vực khác”, ông phân tích.
Ông nhấn mạnh: “Việt Nam cần giải mã các công nghệ chiến lược để giảm phụ thuộc vào nước ngoài, từ đó có thể ‘đi tắt, đón đầu và đi nhanh’. Nếu vận hành đồng bộ, mục tiêu đề ra hoàn toàn khả thi. Tôi nghĩ bây giờ không còn lý do nào mà không làm”.
Về mục tiêu tăng tốc độ tăng năng suất lao động đạt khoảng 8,5%/năm, ông Lạng cho rằng không khó đạt được nếu đầu tư hiện đại hóa, giảm lao động thủ công, thay đổi phương thức quản lý và áp dụng AI để tối ưu hóa quy trình sản xuất, giúp tăng sản lượng với đầu vào nhỏ nhất.
Mở rộng thị trường nước ngoài, ký thêm hiệp định thương mại mới, thu hút đầu tư lớn, đổi mới cơ sở vật chất, máy móc và ứng dụng công nghệ mới cũng sẽ giúp tăng hiệu quả sản xuất.
Đồng thời, các ngành cần tạo mô hình kinh tế có tính hỗ trợ lẫn nhau, trong khi bộ máy quản lý phải áp dụng công cụ thông minh hơn, đơn giản, tiết kiệm và ít lãng phí hơn.
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) theo ông Lạng, thực chất là năng suất của công nghệ. Tác động của yếu tố công nghệ vào tăng trưởng từ 47% lên 55% nghĩa là phần lao động đơn giản và vốn giá rẻ phải giảm, còn tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao phải tăng mạnh.
Do đó, theo ông, cần đầu tư nhiều hơn vào R&D để làm chủ công nghệ mới, sản xuất sản phẩm tinh xảo, giá trị cao, mang hàm lượng công nghệ đặc thù. Đồng thời, đầu tư vào các nhà máy thông minh, doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh toàn cầu và xây dựng đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học trình độ cao.
Hiện nay, chi phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam mới chiếm khoảng 0,5% GDP. “Nếu tăng lên gấp 5 lần, đạt khoảng 2,5% GDP, tương đương 12-13 tỷ USD, chúng ta có thể xây dựng các trung tâm công nghệ cao, công nghệ cốt lõi và chiến lược”, ông Lạng đề xuất.
Về nguồn nhân lực, ông cho rằng chương trình đào tạo 100.000 kỹ sư AI là bước khởi đầu tốt, nhưng để chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, Việt Nam cần đào tạo 2-3 triệu kỹ sư AI trong giai đoạn tới để tạo lực đẩy đủ lớn cho các ngành công nghệ mới.
